(CEO-Talk.vn) – Lực lượng nhân tài công nghệ cao là then chốt trong vòng hai thập niên để Việt Nam tiến tới Mục tiêu 2045. Dữ liệu WB cho thấy chìa khóa không nằm ở vốn hay thiết bị, mà là khả năng tạo dựng đội ngũ đủ sức dẫn dắt nghiên cứu, thiết kế và thương mại hóa công nghệ.
Lực lượng lao động: đông nhưng chưa đủ sâu
Việt Nam có lợi thế về số lượng nhân lực STEM với số liệu năm 2023, khoảng 560.000 người trẻ tuổi có bằng đại học trong các ngành khoa học và kỹ thuật. Số sinh viên mới trong lĩnh vực này cũng tăng gần 10% mỗi năm.
Việt Nam gần đây đã bước vào nhóm 50 quốc gia hàng đầu trong Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu, xếp thứ 44/133 nền kinh tế vào năm 2024 (tăng từ thứ hạng 46 năm 2023), thuộc nhóm vươn lên nhanh nhất về kết quả đổi mới sáng tạo so với mức thu nhập.
Tuy nhiên, lực lượng nhân tài trình độ cao còn mỏng do yếu về kỹ năng lao động, về chất lượng, chiều sâu lẫn mức độ hội nhập về đào tạo – nghiên cứu và tác phong công nghiệp. Chỉ khoảng 0,15% tham gia nghiên cứu và phát triển (R&D), tương đương dưới 800 nhà nghiên cứu tính trên 1 triệu dân – thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.

Cho đến hiện tại, chưa có đại học nào của Việt Nam lọt vào nhóm 200 cơ sở hàng đầu thế giới về khoa học và kỹ thuật. Phần lớn hoạt động công nghệ cao đang tập trung ở khâu lắp ráp, trong khi thiết kế tiên tiến, thương mại hóa tri thức và bằng sáng chế quốc tế còn rất hạn chế.
“Việt Nam cần nhanh chóng mở rộng nguồn cung nhân tài – tăng cả quy mô lực lượng lao động kỹ năng cao hiện tại và nguồn sinh viên mới tốt nghiệp – và tăng cường chiều sâu năng lực của họ để nâng tầm trình độ kỹ năng và chuyên môn”, báo cáo khuyến nghị.
Ba giải pháp cho đội ngũ nhân tài công nghệ cao
Việt Nam trở thành một trong những trung tâm chế tạo chế biến điện tử hàng đầu thế giới và đang tiếp tục thu hút đầu tư về công nghệ cao, nhưng nền tảng R&D vẫn khá thấp, sản phẩm đổi mới sáng tạo trong các lĩnh vực công nghệ cao còn hạn chế. Đặc biệt vẫn chưa tạo được dấu ấn trong thiết kế bán dẫn hay công nghệ sinh học.
WB khuyến nghị tập trung vào các giải pháp chính: đào tạo sâu, tăng cường hạ tầng R&D và liên kết đào tạo.
Thứ nhất, mở rộng và nâng cao chiều sâu cho đội ngũ nhân tài. Điều này bao gồm việc cấp học bổng bậc sau đại học trong các lĩnh vực trọng điểm như bán dẫn, AI và công nghệ sinh học; thu hút chuyên gia quốc tế và Việt kiều bằng cơ chế ưu đãi; phát triển đội ngũ giảng viên xuất sắc; và xây dựng đại học công nghệ trọng điểm với chỉ tiêu cao về nghiên cứu đào tạo.
Thứ hai, xây dựng hạ tầng R&D và cơ sở thí điểm dùng chung. Các trung tâm xuất sắc quốc gia và nền tảng công nghệ mở sẽ cho phép viện, trường đại học và doanh nghiệp cùng sử dụng phòng thí nghiệm, các thiết bị, cơ sở thử nghiệm. Mô hình “từ phòng thí nghiệm đến nhà máy” giúp biến ý tưởng thành nguyên mẫu, rút ngắn thương mại hóa.

Thứ ba, tăng cường liên kết giữa đại học – doanh nghiệp – Chính phủ. Báo cáo đề xuất hình thành các cụm công nghệ cao, chương trình lưu chuyển nhân tài giữa doanh nghiệp và cơ sở học thuật, và liên minh nhân tài – đổi mới sáng tạo nhằm kết nối doanh nghiệp lớn – doanh nghiệp vừa và nhỏ – trường đại học và các nhà cung ứng trong nước.
Giải quyết rào cản đổi mới sáng tạo
WB cũng chỉ ra các rào cản đang kìm hãm vòng quay đổi mới sáng tạo. Một là, hệ thống đào tạo sau đại học còn yếu. Chỉ khoảng một phần ba giảng viên đại học có bằng tiến sĩ, hàng năm đào tạo khoảng 500 tiến sĩ lĩnh vực STEM, khó thể đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu.
Hai là, đầu tư cho giáo dục đại học và R&D thấp. Tổng chi R&D mới đạt 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Lực lượng doanh nghiệp trong nước hầu như chưa đầu tư nhiều vào nghiên cứu.
Ba là, thiếu cơ sở hạ tầng nghiên cứu. Chẳng hạn Việt Nam chưa đầu tư cho dây chuyền chế tác vi mạch bán dẫn, phòng sạch hiện đại, hay cơ sở sinh học thí điểm quy mô công nghiệp. Điều này khiến các ý tưởng nghiên cứu khó được đưa ra thị trường.
Bốn là, liên kết đại học – doanh nghiệp còn yếu. Chương trình đào tạo thường không sát nhu cầu, sinh viên tốt nghiệp còn thiếu nhiều kỹ năng trong hi việc hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chủ yếu đến từ khối FDI, ít có sự kết nối trong nước.
Những hạn chế trên dễ dẫn đến nguy cơ “chạm trần” đổi mới sáng tạo nếu không có bước đi chiến lược. Nếu không nâng cao chất lượng nhân tài, sẽ khó tiến xa hơn các hoạt động lắp ráp và sản xuất thử nghiệm.

Mục tiêu 2045
Từ năm 2023, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách mới: Nghị quyết 57-NQ/TW về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; Nghị quyết 193/HQ15 về cải cách chính sách khoa học công nghệ; và các quyết định về phát triển bán dẫn, AI, công nghệ chiến lược và nhân lực công nghệ cao.
Mục tiêu đến 2045 Việt Nam tham gia chuỗi giá trị bán dẫn toàn cầu, vào nhóm ba nước hàng đầu ASEAN về AI, và đưa kinh tế sinh học đóng góp 7% GDP. Những mục tiêu này cho thấy quyết tâm chính trị, nhưng để hiện thực hóa cần đầu tư lâu dài và hệ thống, nhất là trong đào tạo nhân lực và hạ tầng R&D.
Nhưng để từ công xưởng lắp ráp chuyển thành trung tâm đổi mới sáng tạo, Việt Nam cần xây dựng được đội ngũ nhân tài công nghệ sâu rộng với hệ sinh thái nghiên cứu phát triển đầy đủ. “Để thực hiện mục tiêu 2045, quốc gia phải chuyển sang thiết kế tiền kỳ, đòi hỏi nhân lực có trình độ sau đại học, đa ngành và gắn với nghiên cứu,” báo cáo nêu.
—————————————–
Đọc thêm>>
Vốn tư nhân và đổi mới sáng tạo sẽ dẫn dắt thập niên tăng trưởng mới
Đào tạo nguồn nhân lực: Mấu chốt ở quan hệ giữa người với người
Đào tạo nghề: lỗ hổng “nhất nghệ tinh”
Tài sản lớn nhất của đô thị sáng tạo là hệ thống viện trường
Trong cách mạng công nghiệp 4.0, tốc độ sáng tạo mới quyết định thành công