Kể từ khi trung tâm phần mềm đầu tiên tại TP.HCM ra đời năm 2000 đến nay, cả nước đã có hơn chục khu phần mềm được thành lập nhưng con số tồn tại và phát triển thật sự không nhiều. Vai trò của các khu công nghiệp phần mềm tập trung vẫn còn khiêm tốn trong sự phát triển của toàn ngành với 500 doanh nghiệp và khoảng 30.000 lao động, khoảng 10% số doanh nghiệp và lao động của toàn ngành.
(Sài Gòn Tiếp Thị 13/08/2011) – Theo TS Mai Liêm Trực, nguyên thứ trưởng bộ Bưu chính viễn thông, nhiều nguyên nhân làm cho các khu phần mềm tập trung đến nay còn mờ nhạt. Trước đây cước viễn thông, internet cao, việc vào khu CNPM được ưu đãi thì thị trường hiện nay không còn chênh lệch; chính sách thuế ưu đãi theo ngành cũng đã áp dụng chung cho tất cả các doanh nghiệp phần mềm.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không còn được hấp dẫn trong khi đa số doanh nghiệp lớn như FPT, Viettel, VNPT, VTC… đã xây dựng cơ sở bên ngoài. Ở quy mô chung thì các doanh nghiệp lớn sẽ tham gia vào vai trò đầu tàu cho cả ngành chứ không chỉ các khu CNPM.
Điều đó làm cho các khu CNPM đến nay đều chưa có được quy mô đủ lớn. Trong khi vai trò quan trọng nhất của nơi đây là hỗ trợ cho hoạt động của doanh nghiệp, làm trung tâm cầu nối giữa doanh nghiệp với các đối tác tiềm năng, giữa doanh nghiệp với Chính phủ.
Thông thường những nơi như vậy thuộc quy hoạch phát triển mang tính chiến lược của địa phương hoặc cấp quốc gia, từ đó dễ dàng giải quyết các khó khăn phát sinh trong quá trình hoạt động, các ưu đãi và ưu tiên dành cho phát triển.
Theo ông Trực, ở các nước phát triển, các khu này là nơi tập trung các hãng công nghệ lớn, gắn kết được việc phát triển của doanh nghiệp với các trường đại học và trung tâm nghiên cứu, từ đó tạo ra sức hấp dẫn cho cả ngành công nghiệp.
Xét về những yếu tố như vậy thì trong điều kiện Việt Nam nhiều năm tới, cũng chỉ nên hình thành khu phần mềm trong các khu công nghệ cao ở TP.HCM và Hà Nội. Các nơi khác chỉ cần những toà nhà văn phòng phù hợp, nếu triển khai đại trà mà chưa phù hợp với quy mô phát triển có thể tiếp tục rơi vào lãng phí như giai đoạn vừa qua, theo ông Trực.
Cùng chuyên đề
>>Phát triển công nghiệp phần mềm: Tác động từ những trung tâm dịch vụ toàn cầu
Doanh nghiệp kỳ vọng nhiều hơn
CSC, một công ty của Mỹ có quy mô khá lớn ở Việt Nam đang hoạt động bên ngoài khu phần mềm tập trung. Dù vậy, tổng giám đốc CSC Ngô Hùng Phương cho rằng công viên phần mềm là nơi đóng vai trò tốt trong việc tập hợp và hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và tạo nên bộ mặt cho toàn ngành phần mềm trên thị trường toàn cầu.
“Là địa điểm quan trọng để các nhà đầu tư đánh giá mức độ quan tâm của Chính phủ đến các chính sách phát triển công nghệ cụ thể của một quốc gia”, ông Phương nói.
Global CyberSoft (GSC), một công ty Mỹ với gần 500 kỹ sư hoạt động tại công viên phần mềm (CVPM) Quang Trung năm năm nay. Ông Ngô Văn Toàn, phó tổng giám đốc, cho rằng việc hoạt động tập trung mang đến những lợi ích nhất định. Tuy nhiên, cũng như một doanh nghiệp, CVPM cần cạnh tranh để phát triển, tạo dựng thương hiệu ra thị trường bên ngoài và tạo môi trường hoạt động tốt nhất cho các doanh nghiệp thành viên để phát huy các lợi thế tập trung như chính tên gọi đó.
“Các khu phần mềm tập trung không thể thực hiện được vai trò đầu tàu trên thị trường công nghệ nếu thiếu các hoạt động cộng sinh và hỗ trợ,” theo ông Toàn.
Ông Toàn nhấn mạnh sự phát triển của thị trường công nghệ phụ thuộc vào cả nền kinh tế, nhưng xuất phát điểm và năng lực của thị trường Việt Nam về công nghệ và ứng dụng chưa cao. Đây chính là một điểm yếu mà doanh nghiệp phần mềm đang phải phát triển trong phạm vi đó.
Nhà nước cần làm đầu tàu bằng các chính sách dài hơi và các đầu tư hạ tầng ổn định cho khu vực đặc thù này. Trước mắt hướng phát triển sắp tới sẽ dựa vào kinh nghiệm thực tế của công viên phần mềm Quang Trung. Phó chủ tịch UBND TP.HCM Lê Mạnh Hà |
“CVPM là một chủ trương đúng và mang tính chiến lược, tuy nhiên trong chính sách phát triển không nên nhầm lẫn rằng hễ có CVPM là có nền CNPM mạnh hay có thị trường công nghệ mạnh. Điều này còn phụ thuộc vào chính sách và trình độ phát triển của cả nền kinh tế, môi trường kinh doanh, pháp lý, nguồn nhân lực…”, ông Toàn nói.
Nghiên cứu, ươm tạo đến bao giờ?
Chính vì những hạn chế trên mà mười năm qua các khu phần mềm Việt Nam vẫn chưa chứng tỏ được vai trò đầu tàu ở nhiều vị trí, từ kinh doanh đến sản phẩm công nghệ. Các hoạt động kết nối còn mờ nhạt, chưa có các hoạt động R&D cũng như vườn ươm doanh nghiệp có quy mô. Nếu xem nơi đây là động lực phát triển ngành công nghệ thì vẫn chưa xứng tầm.
TP.HCM là nơi có những chính sách mạnh hướng công nghệ thông tin thành ngành công nghiệp dịch vụ thì những thành quả cũng mới ở chừng mực nhất định. CVPM Quang Trung thời gian dài là nơi “cư ngụ” của các doanh nghiệp nhỏ. Những năm gần đây, các doanh nghiệp lớn như GCS, TMA, Viettel, IBM, đặc biệt là mới đây HP triển khai trung tâm phần mềm tại đây thì khu này mới tạo được những sắc thái sinh động hơn.

Đến nay CVPM Quang Trung vẫn chủ yếu là nơi cung cấp hạ tầng dịch vụ cho vài chục ngàn người làm việc và học tập hàng năm. Riêng mục tiêu về sản xuất vẫn chưa đạt. Ông Chu Tiến Dũng, chủ tịch công ty Phát triển công viên phần mềm Quang Trung (QTSC), cho biết hiện có hơn 5.000 nhân sự phần mềm trong khi các trung tâm đào tạo vài chục ngàn học viên. Điều này chỉ phù hợp trong giai đoạn đầu phát triển nhưng trong tương lai đòi hỏi sự phát triển cân đối giữa sản xuất – đào tạo, các định hướng về hoạt động R&D và ươm tạo ý tưởng công nghệ.
Vườn ươm doanh nghiệp đầu tiên trên cả nước tại CVPM Quang Trung hiện đang ươm tạo 11 doanh nghiệp theo tài trợ và tư vấn của cộng đồng châu Âu sẽ kết thúc năm nay. Hiện chưa có sản phẩm thương mại trên thị trường nhưng theo ông Dũng rất nhiều khó khăn trong mô hình này.
Đến nay Việt Nam vẫn chưa có định nghĩa rõ ràng và cơ chế cho vườn ươm công nghệ. Trên thị trường thế giới, thông thường việc thương mại hoá qua các vườn ươm có tỷ lệ thành công 60 – 70% so 30 – 40% ở các quỹ đầu tư. “Dù vậy việc thu hút ý tưởng vào vườn ươm vẫn rất khó khăn vì doanh nghiệp chưa đủ niềm tin vào các cơ chế ươm tạo hiện nay”, theo ông Dũng.
Một số khu phần mềm khác tại TP.HCM như công viên phần mềm Thủ Thiêm từ năm 2008 đến nay vẫn “nằm im”; công viên tri thức Việt – Nhật đã triển khai nhưng gặp khó khăn vì khủng hoảng kinh tế. Thành phố cũng đang đặt lại vấn đề nên để doanh nghiệp tư nhân hay Nhà nước làm khu phần mềm. Doanh nghiệp có thể làm tốt khu công nghiệp nhưng phần mềm là ngành đặc thù, có tính đầu tư mạo hiểm và chi phí lớn, cần sự ổn định về nguồn lực, hạ tầng và đòi hỏi phát triển “xanh và sạch”
——————————
Đọc thêm
Lận đận công nghiệp phần mềm
Doanh nghiệp phần mềm trong nước: Vì sao chưa chiếm được thị trường nội địa?
Gia công phần mềm: Từ kỳ vọng đến thực tế
Năm thăng hoa của xuất khẩu phần mềm